Nguồn: Nhà xuất bản Giáo dục năm 1977 (in lần thứ 5);
Người dịch: Phan Tất Đắc – Lê Nguyên Long – Thế Trường;
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
“Vật lý vui” của Ia. I. Pêrenman xuất bản lần này là lần thứ mười sáu. Lần xuất bản trước ra mắt bạn đọc cách đây mười năm và đã bán hết từ lâu.
Sở dĩ quyển sách đạt được kết quả rực rỡ là nhờ ở tài năng hiếm có của tác giả, đã biết nhận xét và chọn trong đời sống những sự kiện và hiện tượng thông thường, quen thuộc nhưng đồng thời có ý nghĩa vật lý sâu sắc. Hình thức dễ hiểu và cách trình bày hấp dẫn đã làm cho quyền sách được hoan nghênh rộng rãi và lôi kéo người đọc.
Khi viết, tác giả đã xác định rất rõ nhiệm vụ và mục đích của sách. Trong khi kể chuyện về những khái niệm và định luật chắc chắn đã biết từ lâu, tác giả đã đả động đến những điều cơ sở làm nền tảng cho môn vật lý hiện đại, và đã cố gắng tập cho bạn đọc quen với lối “suy nghĩ theo tinh thăn của khoa vật lý học” Quan điểm đã như thế, thì cũng dễ hiểu vì sao quyển sách không dành chỗ cho những thành tựu mới mẻ nhất của ngành vô tuyến điện từ, của vật lý nguyên tử và những vấn đề hiện đại khác.
Viết ra từ gần nửa thế kỷ nay, quyển sách đã thường xuyên được tác giả sửa đổi và bổ sung cho mãi tới lần xuất bản thứ mười ba (1936).
Lần xuất bản thứ mười bốn và mười lăm (1947 và 1949) được chuẩn bị ra đời lúc tác giả không còn nữa và được giáo sư A. B. Môlôđêepxki hiệu đính. Lần xuất bản này, cuốn sách được phó giáo sư V. B. Ugarôp hiệu đính.
Tái bản lại quyền « Vật lý vui», nhà xuất bản không có ý định sửa đổi căn bản các bài cùa quyền sách đã nổi tiếng này. Trong lúc hiệu đính bản thảo của tác giả, chúng tôi chỉ thay những con số và những luận đề không hợp thời nữa, tước bỏ những đề án không còn đúng nữa, vẽ lại và sửa chữa một phần những hình vẽ, bổ sung một vài chỗ trong bản thảo và viết những lời ghi chú, đồng thời đã sửa chữa lại các đơn vị đo theo bảng đơn vị đo lường hợp pháp của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
TRÍCH LỜI NÓI ĐẦU CỦA TÁC GIẢ
TRONG LẦN XUẤT BẢN THỨ MƯỜI BA
Trong cuốn sách này tác giả cố ý không thiên về cung cấp cho bạn đọc những kiến thức mới bằng giúp đỡ bạn đọc « hiểu rõ những điều mà họ đã biết », tức là đào sâu và sinh động hóa những kiến thức cơ bản về vật lý mà họ đã có, bày cho họ biết vận dụng những kiến thức ấy một cách có ý thức và khuyến khích họ áp dụng những kiến thức ấy vào nhiều mặt khác nhau. Để đạt mục đích đó, tác giả đã đưa ra nhiều loại đề tài « hóc búa », những câu hỏi ngoắt ngoéo, những mẩu chuyện thú vị, những bài toán vui, những nghịch lý và những sự so sánh bất ngờ rút ra từ lĩnh vực vật lý học, thuộc phạm vi những hiện tượng gặp hàng ngày hoặc trích từ những tác phẩm phổ biến của các nhà phổ biến khoa học viễn tưởng. Loại tài liệu trích tác phẩm khoa học, tác giả đã sử dụng đặc biệt rộng rãi, coi nó là mục đích thích hợp nhất của tập sách : trong sách đã có những đoạn trích trong các tiểu thuyết và truyện ngắn của Giuyn Vécnơ, Oenxơ, Mác Toainơ, v.v… Những thí nghiệm mô tà trong các tiểu thuyết đó không những hấp dẫn người đọc mà còn có thể đóng vai trò không kém quan trọng trong khi giảng dạy đề dùng làm những thí dụ minh họa sinh động.
Tác giả đã cố gắng, đến hết mức có thể, trình bày tài liệu dưới hình thức vui, hấp đẫn. Tác giả đã theo phương châm của một tiên đề tâm lý học, nói rằng hứng thú đối với một môn học sẽ nâng cao sức chú ý, làm cho sự nhận thức được dễ đàng, và do đó giúp , cho sự lĩnh hội được vững chắc và có ý thức hơn.
Trái với những tập sách khác thuộc loại khoa học vui, quyền « Vật lý vui » này rất ít mô tả những thí nghiệm vật lý gây ấn tượng và vui. Nó có mục tiêu khác hẳn những tuyển tập trình bày tài liệu để làm thí nghiệm. Mục đích của «Vật lý vui» là kích thích sự hoạt động của trí tưởng tượng khoa học, tập cho bạn đọc quen suy nghĩ theo tinh thần của khoa học vật lý và gây ra trong ý thức của họ vô số những sự liên tưởng giữa các kiến thức vật lý với các hiện tượng muôn hình muôn vẻ nhất trong đời sống, với tất cả những điều mà họ thường tiếp xúc. Phương châm mà tác giả đã cố gắng noi theo sau khi sửa lại quyển sách, đã được Lênin nêu lên trong những lời nói sau đây : “Nhà văn đại chúng phải biết xuất phát từ những dữ kiện đơn giản và phổ biến nhất, rồi dùng những lập luận không phức tạp hoặc những thí dụ khéo lựa chọn để nêu lên những kết luận chủ yếu rút ra từ những dữ kiện ấy, và thúc đẩy người đọc trong lúc suy nghĩ tiến tới những vấn đề ngày càng xa hơn, để dẫn người đọc tới những ý nghĩ sâu sắc, những lý thuyết sâu sắc. Nhà văn đại chúng không nhằm những người đọc hồ đồ, không muốn hay không biết suy nghĩ, mà ngược lại, nhà văn đó phải đòi hòi những người đọc còn ít hiểu biết một sự quyết tâm nghiêm chỉnh động não và giúp đỡ họ thực hiện cái công việc khó khăn và nghiêm túc đổ, dắt dìu họ bằng cách giúp đỡ họ đi những bước’ đầu và bày cho họ tự mình tiếp tục tiến lên”. (Lênin tuyển tập, xuất bản lần thứ tư, tập 5, trang 283—286)
Do lòng mong mỏi của các bạn đọc muốn biết lịch sử của cuốn sách này, chúng tỏi xin kề qua vài nét về tiểu sử của nó.
« Vật lý vui » ra đời cách đây đã gần một phần tư thế kỷ và là «đứa con đầu lòng» trong cái gia đình sách đông đúc của tác giả, tính cho tới nay có tới vài chục quyển.
Hiện nay, con số tổng cộng các bàn «Vật lý vui» gồm cà hai tập xuất bản bằng tiếng Nga đã xấp xỉ 200 000. Vì phần lớn sách in ra đều được sử đụng tại các thư viện, mỗi bản qua tay hàng chục người, nên số người đọc của quyển sách chắc chắn phải tới hàng triệu rồi. Qua thư từ của bạn đọc thì thấy «Vật lý vui» đã được may mắn thâm nhập vào những miền hẻo lảnh nhất của Liên xô.
Nấm 1925 bàn dịch « Vật lý vui » ra tiếng Ucren đã được xuất bản, năm 1931 đến lượt bản dịch ra tiếng Đức và tiếng Tân Do thái ; rồi một bản địch lược ngắn ra tiếng Đức cũng đã được xuất bản ở Đức. Những bản trích dịch bằng tiếng Pháp đã được xuất bản ở Thụy sĩ và ở Bỉ, và bản địch ra tiếng Cổ Do thái ra mắt ở Palestin.
Cuốn sách được phổ biến rộng rãi như thế, điều đó chứng tỏ đông đảo quần chúng rất ham hiểu biết về vật lý và đã đặt cho tác giả một trách nhiệm nặng nề đối với chất lượng của tài liệu. Tác giả đã thể hiện tinh thần trách nhiệm đó qua nhiều lần sửa đổi và bổ sung các bài của «Vật lý vui» ở mỗi kỳ tái bản. Có thể nói, cuốn sách đã được viết trong suốt 25 năm từ khi nó ra đời. Ở lần xuất bản này, chúng tôi chỉ còn giữ lại không đến một nửa số bài đầu tiên, còn những hình vẽ minh họa thì hầu như không còn cái nào là cũ.
Có một số bạn đọc đã yêu cầu tác giả đừng đặt vấn đề sửa đổi nội dung cuốn sách đề khỏi bắt họ « vì vài chục trang mới mà phải mua một cuốn mới khi tái bàn ». Song những ý kiến tương tự như thế khó có thể làm cho tác giả coi nhẹ yêu cầu phải cải tiến đến hết mức có thể tác phẩm của mình. «Vật lý vui» không phải là một tác phẩm nghệ thuật, mà là một văn tập khoa học, tuy có tính chất phổ thông. Đối tượng của nó — môn vật lý học — ngay trong những cơ sở đầu tiên cũng luôn luôn được những tài liệu sốt dẻo làm cho phong phú thèm lên, và cuốn sách phải thường kỳ đưa những tài liệu ấy vào.
Mặt khác, lại có những người trách rằng «Vật lý vui» không dành chỗ cho những đề tài như những thành tựu mới nhất của ngành kỹ thuật vô tuyến điện, của việc phân chia hạt nhân nguyên tử, các thuyết vật lý hiện đại, v.v… Những lời trách cứ đó là kết quả của một sự hiểu lầm. «Vật lý vui» có mục đích hoàn toàn xác định, còn việc khảo sát những vấn đề đổ lại là nhiệm vụ của những văn tập khác.
Gắn bó với « Vật lý vui », ngoài quyển hai của nó ra, còn có mấy văn tập khác nữa cũng do tác giả viết. Một quyển viết cho những bạn đọc trình độ tương đối thấp, còn chưa có dịp nghiên cứu hệ thống môn vật lý, nhan đề là « Vật lý học trên mỗi bước đi » (Nhà xuất bản thiếu niên). Hai quyển khác thì ngược lại, viết cho những người đã học xong giáo trình vật lý ở trường trung học. Đó là « Cơ học vui »và « Bạn có hiểu vật lý không ? ». Quyển dưới có thể coi là tập kết thúc của « Vật lý vui ».
Năm 1936
Ia. I. PÊRENMAN
CHƯƠNG I
VẬN TỐC TỔNG HỢP CHUYỂN ĐỘNG
Chúng ta chuyển động nhanh chậm thế nào ?
Một người chạy thi giỏi chạy 1,5 km mất chừng 3 phút 50 giày (kỷ lục thế giới năm 1958 là 3 phút 30,8 giây). Muốn so sánh với vận tốc bình thường cùa một người đi bộ là 1,5m trong một giây thi phải làm một con tính nhỏ; và ta sẽ thấy là trong một giây nhà thể thao chạy được 7 m. Kể ra so sánh như thế cũng không được hợp lý cho lắm, bởi vì người đi bộ có thể đi lâu hàng mấy giờ liền, mỗi giờ đi được 5 km ; còn nhà thể thao chỉ có thể chạy nhanh như thế trong một thời gian ngắn. Một đơn vị bộ binh hành quân nhanh đi cũng chỉ bằng một phần ba người chạy; họ đi được 2m trong một giây hay hơn 7 km trong một giờ, nhưng có ưu điểm hơn nhà thể thao là có thể đi được như vậy trên một quãng đường dài hơn nhiều.
Đem so sánh vận tốc binh thường của người với vận tốc của những con vật chậm chạp thường được nói đến trong ngạn ngữ, như con sên hay con rùa, thiết tưởng cũng là một điều lý thú. Con sên quả đã xứng đáng với danh tiếng cùa nó trong ngạn ngữ: nó đi được 1,5mm trong một giây, hav 5,4m trong một giờ, nghĩa là chậm hơn người đúng một ngàn lần. Một con vật chạp điển hình khác lã con rùa cũng chẳng nhanh nhẹn gì hơn con sên lắm : vận tốc binh thường của nó là 70 m trong một giờ.
Bên cạnh con sên và con rùa thì người nhanh nhẹn hơn. nhưng khi đem so sánh chuyển động của người với những chuyển động khác dù chỉ là những chuyển động không nhanh lắm, trong giới tự nhiên xung quanh, thì người sẽ hiện dưới một bộ mặt khác hẳn. Thực ra, người có thể đuổi kịp dễ dàng dòng nước chảy trong đa số những con sông ở đồng bằng và không chậm hơn luồng gió nhẹ là mấy. Nhưng nếu thi với một con ruồi bay 5 m trong một giây thì người phải chạy nhanh như trượt tuyết mới bì kịp. So với thỏ hoặc chó săn, thi dù có cưỡi ngựa phi nước đại, người cũng không đuổi kịp. Đua nhanh với chim ưng thì người phải ngồi máy bay mới sánh nổi.
Những bộ máy do con người phát minh ra đã làm cho người trở thành sinh vật nhanh nhất thế giới.
Gần đây ở Liên xô, ngưởi ta đã chế ra được loại tàu thủy chở khánh có cánh ngầm dưới nước (h. 1) chạy với vận tốc từ 60 đẽn 70 km/h. Trên đất liền, người có thể chuyển động nhanh hơn trên mặt nước. Ở một số đoạn đường vận tốc của xe lửa chờ khách ở Liên xô lên tới 100 km/h. Người ta đang chuẩn bị để sản xuất hàng loạt loại ô-tô hạng nhẹ kiểu mới DIL — 111 (h. 2) có thể chạy với vận tốc 170km/h, xe ô-tô bảy chỗ ngồi hạng nhẹ «Tsaica » có vận tốc tới 160 km/h.
Nhưng máy bay hiện đại còn có vận tốc vượt xa những vận tốc ấy. Trên nhiều đường hàng không dân dụng của Liên xô đang có những chiếc máy bay nhiều chỗ ngồi TU – 104 và TU – 114 (h. 3) hoạt dộng. Vận tốc trung bình của chúng là vào khoảng 900 km/h. Trước đây không lâu, các nhà chế tạo máy bay còn đặt ra nhiệm vụ vuợt qua « hàng rào âm » tức là vượt vận tốc của âm (330 m/s, tức 1200 km/h). Nhưng bây giờ vấn đề đó đã được giải quyết. Vận tốc của những máy bay nhỏ lắp động cơ phản lực mạnh, đã gần tới 2000 km/h.
Những bộ máy do người chế tạo ra còn cỏ thê đạt được những vận tốc lớn hơn nữa. Vệ tinh nhân tạo Xô viết đầu tiên cùa Trái đất đà được phóng lên với vận tốc ban đầu vào khoảng 8 km/s. Cuối cùng những tên lửa vũ trụ Xô viết đà vượt qua cái gọi là vân tốc vũ trụ cấp 2, tính ở bề mặt Trái đất là 11,2 km/s; nhờ đó mà chúng ta đã vượt ra khỏi giới hạn trường hấp dẫn của Trái đất.
Bạn đọc có thể xem xét bảng vận tốc sau đây:
(Xem tiếp kỳ sau: Đuổi theo thời gian)